Lê Trọng Liệu

    0
    41

    Personal Information

    Name
    Lê Trọng Liệu
    Born 6/2/1870
    Gender ♂️ Male
    Died 23/11/1944

    Parents ( 1 )

    Father
    Lê Dụ
    Mother Nguyễn Thị Tuân
    Siblings ♂️ Lê Sà

    Spouses ( 1 )

    Spouse
    Lê Thị Ba
    Children ♂️ Lê Thước
    ♀️ Lê Thị Đôi
    ♀️ Lê Thị Ba
    ♀️ Lê Thị Bốn
    ♀️ Lê Thị Năm
    ♀️ Lê Thị Sáu
    ♀️ Lê Thị Bảy
    ♀️ Lê Thị Chín
    ♂️ Lê Trọng Huyến

    Events

    6/2/1870
    Birth Entering into life.

    📍

    23/11/1944
    Death Mortal life terminates.

    📍

    Additional Information

    Additional Info

    Sinh 7/1 Canh Ngọ năm Tự Đức thứ 23, (tức 6/2/1870) tại tỉnh lị tỉnh Quảng Nam (khi đó thân sinh là Cụ Lê Dụ đang làm Tuần phủ Quảng Nam). Năm 1875 Thân phụ mất tại Kinh đô Huế, ông cùng mẹ và em là Lê Sà đi theo quan tài về chính quán- Đức Thọ, Hà Tĩnh.

    Năm 1885 Vua Hàm Nghi ra Hà Tĩnh cuộc khỏi nghĩa Cần Vương  bắt đầu, làng quê bị loạn lạc giặc Pháp hoành hành; Ông vào Huế học tập.

    Năm 1895 Cụ trở về quê nhà cùng những người yêu nước tìm cách cứu giúp những người bị cầm tù trong nhà lao Hà Tĩnh. Vì lẽ đó cụ bị tên Việt gian Lê Văn Khuê (tức Bang Khuê) vu cáo thông giao với giặc. Tin lời Bang Khuê, Công sứ Hà Tĩnh ra lệnh bắt ông, định khép tội tử hình vì chống lại mệnh lệnh của hai Triều đình Pháp- Nam Triều. Nhờ có quan Tri phủ Đức Thọ là Thân Trọng Điềm (nguời Huế) biết rõ sự việc đã trình bày và xin quan trên tha cho ông.

    Năm 1898 ông lại vào Huế học,

    Năm 1906 thi hương trường Thừa Thiên Cụ đậu Tú Tài. Cụ Thái Tốn đốc học người làng Văn Lâm có mừng Cụ đôi câu đối:

    TIÊN CÔNG HUỆ CHÍNH BI NAM NHẠC

    CHƯ TỬ NĂNG VĂN BẢNG ĐẾ THÀNH

    Nghĩa là:

    Cụ cố trước kia đức chính tốt núi Quảng Nam ghi bia

              Các con ngày nay văn học giỏi, kinh thành Vua treo bảng

    Năm 1909 Ông được bổ làm Thừa biện tỉnh Hà Tĩnh,

    Cuối năm 1912 được cải bổ Bát phẩm tỉnh Quảng Trị và làm việc tại đó cho đến năm 1925 được thăng hàm Thị Giảng

    Năm 1925 Ông về quê nhà nghỉ hưu ở tuổi 55, làm nhà Dưỡng nhàn tại xóm Sau, làng Lạc Thiện; năm sau Cụ đón mẹ là Can Tiết ở Thanh Hóa về phụng dưỡng. Năm 1940 Can Tiết mất cụ vẫn ở ngôi nhà ấy đến khi mất

    Cụ mất ngày 8/10 năm Giáp thân (tức 23/11/1944) hưởng thọ 75 tuổi;