spot_img

Tết cổ truyền và phong tục tập quán Việt Nam ( Phần V )

PHONG TỤC NGÀY LỄ TẾT CỦA TỪNG VÙNG MIỀN

Những nước cùng tổ chức tết âm lịch, đó là: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Triều Tiên, Mông cổ, Ma lai, Sinh ga po… Thời khắc đêm giao thừa (giáp canh) có thể cách nhau một vài giờ. Múi giờ thủ đô Bắc Kinh (Tr Quốc) sớm hơn Hà Nội (Việt Nam) là 1 giờ (HN + 1 giờ), cho nên nếu HN là 09 h 00 sáng thì BK 10h 00 sáng cùng ngày, lúc HN là 12h 00 đêm ngày 30 tháng 12 thì BK là 1h 00 sáng ngày 01 tháng 01.

Tết âm lịch của người Việt thường vào dịp cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 dương lịch. Mùa xuân bắt đầu bằng Tết Nguyên Đán. Tết là do chữ “tiết” đọc chệch ra mà thành. Nguyên Đán, nguyên nghĩa là bắt đầu, đán là buổi sáng sớm, nguyên đán là buổi sáng đầu tiên của một năm, tết Nguyên Đán được người Việt gọi là Tết Cả. Tết được bắt đầu tính từ thời khắc giao thừa (12 giờ 00 đêm, giờ tý) của một năm mới, từ ngày mồng 1 tháng 1 (tháng giêng) âm lịch. Thời khắc này gọi là “tống cựu, nghinh tân” là thời điểm thiêng liêng chuyển giao năm cũ sang năm mới, mọi cái cũ của năm cũ qua đi, quên đi, tha thứ cho nhau để con người cũng như vạn vật bước sang một trang mới. Mỗi người thêm một tuổi mới với bao sự kiện mới đang chào đón phía trước…

Ngày 23 tháng 12 âm (tháng chạp) các gia đình làm lễ đưa tiễn ông Công, ông Táo về trời để trình báo với Ngọc Hoàng mọi việc của gia chủ trong năm qua, gia chủ thường soạn 1 mâm thức ăn mặn hoặc đơn giản chỉ nấu vài bát bánh ngào mời các ông ăn để lên tấu trình cho ngọt giọng; sắm cho các ông mũ, áo, hia, vàng mã, cá chép (cá chép là phương tiện để ông Táo cưỡi bay lên trời) hoặc đơn giản chỉ một ít vàng mã; cúng xong thì đốt còn cá thì phóng sinh, lúc này việc chuẩn bị tết đã náo nức hơn. Dù lúc này, công việc đồng áng, mùa màng của nhà nông bận rộn nhưng việc sắm sửa Tết với rất nhiều thứ như lá bánh, vàng hương… lau dọn bàn thờ, thay bát hương; sửa sang, trang trí nhà cửa, chuẩn bị gói bánh chưng, bánh tét… đã mang không khí tết đến với mọi nhà.

Ngày 23 tháng chạp làm lễ tiễn ông Táo lên Thiên đình họp báo cáo tổng kết năm, ngày 30 âm (hoặc ngày 29 nếu tháng thiếu) ông Táo từ trời trở lại từng gia đình cho nên trong khoảng thời gian từ 23 đến 30 không có ông Táo và các thần canh giữ để xua đuổi tà ma quỷ sứ do đó người ta trồng cây nêu để yểm, ngày mồng 7 thì hạ cây nêu.

Mâm ngũ quả đã được chuẩn bị cả tuần trước khi tết đến, 5 thứ quả của dân Miền bắc phải là quả và màu khác nhau, gồm có: chuối xanh (tượng trưng cho bàn tay nâng đỡ của Đức Phật), bưởi màu vàng, hồng màu đỏ, lê màu trắng, quýt màu da cam; nói chung thường có nải chuối xanh còn lại quả loại nào cũng được nhưng phải khác màu sắc và không có màu đen. 5 thứ đó tượng trưng cho ngũ hành là: phú (giàu có), quý (sang trọng), thọ (sống lâu), khang (khỏe mạnh), ninh (bình yên). Mâm ngũ quả thể hiện mong ước về một sự đủ đầy, no ấm và hạnh phúc; sắp đặt quả tùy ý mỗi người. Ngũ quả của Miền nam theo tiếng lóng nếu đầy đủ là: mảng cầu (cầu mong) tức là quả na, quả xoài (tiêu xài), đu đủ (đầy đủ), quả dừa (vừa ý…), quả sung (sung sướng); hoặc ngoài nải chuối có thêm 4 thứ quả với ý nghĩa của chữ: cầu, vừa (dừa), đủ, sung. Dường như tất cả mọi người đều náo hức mong tết về để có dịp thăm hỏi, chúc tụng nhau và đồng thời cũng thể hiện ước mong về những điều tốt lành cho một năm mới với rất nhiều dự định.

Những ngày giáp tết công việc càng bận rộn hơn. Bên cầu ao làng, người ta nô nức mang lá dong ra rửa và trò chuyện râm ran. Sáng 28, 29 âm, mặc dù trời lạnh tê tái cùng những cơn gió bấc như cắt da cắt thịt mọi người vẫn dậy rất sớm để gói bánh chưng, còn kịp bắc bếp nổi lửa, đun bánh thời gian từ 10 đến 12 tiếng đồng hồ (sôi thì đun nhỏ lửa, nước cạn đổ thêm nước ấm hay nước sôi vào). Sáng 29 và 30 tết, người ta đổ về chợ. Rất nhiều cái chợ mới họp bên lề đường, ngã ba, ngã tư với rất nhiều chủng loại hàng hoá. Nhà giàu thì mua một cây đào thế hoặc một cây mai rất đẹp, có người mua cả những cây quất to, sai trĩu những quả chín vàng rực rỡ như nắng xuân. Nhà nghèo cũng cố gắng mua hoặc xin một cành đào nhỏ về cắm trong nhà cho có hương vị tết. Mua quần áo để tặng bố mẹ và con. Trẻ con nông thôn được theo bố mẹ đi chợ hoặc rủ chúng bạn đi chợ những ngày này thật là vui vẻ; trước những năm 1980 người ta còn mua những bức tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống … và một vài cặp câu đối tết với chữ viết trên nền giấy màu hồng để treo trong nhà với mong ước về sự sinh sôi, nảy nở, mua vài cành hoa giấy về cắm bình, mua bức mành về treo trước gian có bàn thờ cho đẹp mắt và ấm cúng.

Ngày 26 đến 30 âm các anh em con cháu ra nghĩa trang tu sửa, quét dọn, thắp hương phần mộ và mời cha mẹ, tổ tiên chiều tối 30 về các nhà con cháu ăn tết. Trong ngày 29, 30 tranh thủ tắm giặt gội đầu với nước lá thơm cho sạch hôi bẩn năm cũ, tranh thủ trả nợ vay, tranh thủ đi tặng quà cho ông bà, người thân, đồng nghiệp; trưa hoặc chiều 30 cúng tất niên, gia đình, anh em đoàn tụ ăn 1 bữa cơm thân mật cuối năm.

Đêm 30 gọi là đêm Trừ tịch (tức là đêm chuyển giao năm cũ sang năm mới), từ lúc đó trên bàn thờ hương và nến được thắp liên tục trong suốt mấy ngày đêm liền như một chiếc cầu nối tâm linh giữa con cháu với những người đã khuất. Trưa hoặc chiều ngày mồng 2 hoặc mồng 3 làm “lễ hóa vàng” đốt hàng mã cúng tiễn các cụ về trời để cho con cháu yên tâm đi lễ hội đường xa; xong rồi thì thôi không thắp hương, không đỏ đèn nữa.

Đêm 30 tết, trong không khí tất niên mọi người ai về nhà nấy để chuẩn bị đón thời khắc giao thừa. Từ lúc ấy, người ta thường ngại bước chân sang đất nhà khác nếu như mình không là người may mắn, gia đình mình năm vừa rồi có tang hoặc tuổi mình không hợp với tuổi của chủ nhà kia, theo quan niệm là để tránh điều xui xẻo mang đến cho họ.

Lễ cúng giao thừa (giáp canh) thường cúng gia tiên trong nhà, nhưng cũng có một số gia đình lập thêm 1 bàn thờ nhỏ cúng ngoài trời, họ quan niệm trong thời gian ngắn này quân và quan các thần đi lên đi xuống đầy trời để giao ban đổi gác cho nhau sau 1 năm, vì vậy sẽ có nhiều thần đi vội vàng ko kịp ăn nên cúng ngoài để họ ăn nhanh đi cho kịp…

Sau lễ cúng giao thừa, mọi người “trẻ vui nhà, già vui chùa” kéo nhau ra đường hái lộc và lên đình, lên chùa làm lễ cầu may, mong ước về mọi điều suôn sẻ và hanh thông; người già đến chùa thắp hương để cầu sức khoẻ, cầu an, cầu tài, cầu lộc cho bản thân mình và gia đình. Ngày nay tết ở thành phố phần lớn thanh niên thường rủ nhau đi nhậu, vui chơi hoặc đóng cửa đi du lịch xa hết tết mới về, người già thì đi lễ chùa…

Ngay sau khi cúng giao thừa hoặc sáng mồng một, những người đã được gia chủ nhờ từ trước đến xông đất, gia chủ mời người xông đất uống nước và tặng phong bao cho họ; hoặc gia chủ chọn 1 người trong nhà hợp tuổi đi ra khỏi cổng trước giao thừa, sau giao thừa quay về tự xông đất cho cả nhà. Trong những ngày tết, nếu quét dọn nhà cửa thì rác bẩn hốt vào bao để góc vườn sau 3 ngày tết mới đổ đi vì người xưa quan niệm đó là lộc, điều may mắn, tốt lành. Từ ngày mồng 1, 2 người dân từ Huế trở vào bữa ăn thường có món Khổ qua (mướp đắng) tức là mong cho gian khổ sẽ qua và thịnh vượng sẽ đến.

Để thể hiện “uống nước nhớ nguồn” và lòng biết ơn “tôn sư, trọng đạo” ngày xưa người Việt (dân Miền bắc) quan niệm “mồng 1 tết Cha, mồng 2 tết Mẹ, mồng 3 tết Thầy” tức là mồng 1 lo việc nhà mình, đi chúc tết cúng tết dòng tộc anh em nội thân của bố (bên nội- bên cha), đi nhà thờ; mồng 2 đi chúc tết bên ngoại (bên gia đình mẹ và vợ), tức là chúc tết ông bà ngoại cậu gì; những chàng trai đã có người yêu, vợ chưa cưới cũng đi tết bố mẹ vợ tương lai vào ngày này; mồng 3 tết thầy: học sinh đến thăm hỏi các thầy cô đã dạy học, dạy nghề, những người có ảnh hưởng lớn đến tình cảm và cuộc đời của mình để đến thăm viếng, tỏ lòng tôn kính, biết ơn, đó là những người đã đem đến cho họ một lời khuyên hay công việc tốt, từ đó đã làm cho cuộc đời thay đổi giàu có hạnh phúc.

Vùng Đức Thọ, trước năm 1980 phong tục sáng mồng một tết từ 7 giờ 30 đến 9 giờ chủ gia đình sắm sửa 3 mâm cúng đó là: tại nhà tộc trưởng của nội tộc (để cúng cố can), bên nhà mẹ đẻ và nhà vợ của chủ nhà (sáng đó cho con cháu chia ra đến ăn cỗ 3 nơi và thắp hương ở nhà thờ họ); ngày nay không phải bưng mâm đội lễ quang gánh như trước nữa mà gửi tiền trước nhờ làm hộ…

Ngày nay do công việc làm ăn và nhiều mối quan hệ khác cho nên từ ngày 25 đến tối 30 trước tết, ngoài việc dành thời gian mua sắm cho gia đình một số người còn phải đi đưa quà biếu để trả ơn người đã giúp đỡ mình, để “bôi trơn” các mối quan hệ công việc, để “đầu tư” cho các đối tác làm ăn và các dự định trong tương lai, trả tiền nợ và thanh toán tiền “lại quả” của bạn hàng…

Ngày nay, câu “mồng 1 tết cha, mồng 2 tết mẹ, mồng 3 tết thầy” tức là mồng một đi bên nội, mồng 2 bên ngoại; mồng 3 trở lên đi tết thầy cô giáo cũ, đối tác làm ăn… không thể thứ tự như vậy mà tùy vào tình hình nơi nào thuận tiện hơn cần thiết hơn làm trước, có những việc để ra ngoài tết sẽ mất hết ý nghĩa, giá trị.

Sau khi cúng giao thừa hoặc sáng mồng 1 tháng 1 âm (tháng giêng) hay vào 1 thời điểm của ngày khác khi thuận tiện tranh thủ họp gặp mặt các con cháu và nội bộ gia đình để chúc mừng năm mới; những người bề trên (bố mẹ, ông bà, cố) thường tặng cho người dưới những chiếc phong bao màu hồng, bên trong có vài đồng tiền lẻ còn mới gọi là tiền mừng tuổi lấy may với ý nghĩa phát vốn, phát lộc, phát tài cho con cháu kèm theo lời chúc tụng động viên vui vẻ (không nói những từ ngữ nặng nề, chỉ trích, xúc phạm; tránh nói điều tang thương, xui xẻo, nhạy cảm); bàn việc gia tộc, bình văn thơ, đối thơ… có nội dung ý nghĩa thiết thực ôn lại những khó khăn, thuận lợi của từng người trong năm qua.

Từ ngày mồng 2 tết, các cuộc vui lễ hội bắt đầu tưng bừng diễn ra khắp nơi và kéo dài cho đến hết mùa xuân. Trước những năm 1980 từ đêm 30 đến 15 âm nhiều vùng quê Việt Nam trong đó có tỉnh Hà tĩnh đoàn sắc bùa (tầm vinh) đi khắp lối ngõ thôn xóm cả ngày đêm, nhà nào mời thì vào hát với làn điệu cổ truyền theo hình thức diễn xướng dân gian có sẵn (mỗi địa phương hát một khác) dựa trên thể thơ lục bát; nội dung là chúc tết, mừng thọ, mừng một sự kiện lớn nào đó của gia đình; một đoàn có 6 hoặc 7 người đều là nam, khỏe mạnh, gia đình tử tế, không có tang xui xẻo; nhạc cụ gồm có: 1 chiếc trống cơm (tầm vinh) dài hơn 50 cm, đường kính mặt trống hơn 20 cm được bọc bằng da con trăn, 1 chiếc trống bọc 1 mặt da trâu đường kính gần 40 cm, chiều cao khoảng 15 cm gõ tiếng lẹt phẹt, 1 hoặc 2 trống loại nhỏ chiều cao khoảng hơn 1 gang tay, vài bộ đục đạc xúc xắc đeo vào ngón tay hay cổ tay. 1 người gõ phách nhịp có 2 đoạn tre hoặc gỗ. Đoàn sắc bùa dân tộc vùng núi phía bắc có khoảng 20 người, nhạc cụ chỉ mỗi cồng chiêng và mỗi người cầm 1 chiếc có âm thanh trầm bổng khác nhau. Những trò chơi đấu vật, kéo co, bịt mắt bắt dê, diễn tuồng, diễn kịch, hát đối, đánh đu, thả chim, chọi gà, cờ người, đá cầu, đánh đáo, pháo đất… được tổ chức tưng bừng, thu hút đông đảo mọi người với một sự náo hức và vui vẻ đến kỳ lạ; người ta không coi trọng phần thưởng và không có sự ăn thua trong các trò chơi mà chỉ coi đây là dịp để giao lưu, kết bạn.

Ở Tây Bắc, những cô gái Thái đến tuổi cập kê (17, 18 tuổi) bắt đầu biết tự làm cho mình những quả còn rất đẹp. Trong quả còn được nhồi hạt vừa tạo độ nặng, vừa thể hiện những mong ước về sự sinh sôi nảy nở. Mỗi góc quả còn được đính tua ngũ sắc: xanh, đỏ, trắng, tím, vàng. Ở giữa quả còn được luồn một sợi dây dài dùng để cầm quả còn tung lên và cũng được đính rất nhiều tua ngũ sắc. Khi tung còn, người ta cầm một đầu dây, quay mạnh mấy vòng để lấy đà rồi tung lên cao; cuộc chơi diễn ra, một bên tung, một bên bắt; chơi với nhau thường là một cặp nam nữ chưa vợ chưa chồng; họ đứng cách nhau vừa tầm bay của quả còn và bên nào không bắt được là thua; nếu chàng trai thua cuộc, cô gái sẽ bắt phạt uống rượu, ít nhất là ba chén cho một lần thua; nếu cô gái thua cuộc, chàng trai sẽ phạt bằng cách lấy đi của cô một kỷ vật như chiếc khăn tay hay chiếc vòng tay… Đó là sự khởi đầu cho mối nhân duyên. Chén rượu nồng, chiếc khăn tay, vòng tay… quả còn bỗng trở thành quả cầu trao duyên đôi lứa.

Ngày mồng 2 hoặc mồng 3 tết làm lễ tiễn ông bà tiên tổ về trời bằng “lễ hoá vàng” với sự cầu mong được che chở và phù hộ; ngày mồng 7 hạ cây nêu tết Nguyên Đán kết thúc nhưng nhiều lễ hội mùa xuân bắt đầu mở ra và kéo dài đến hết tháng 3 âm lịch.

Tết Cả đã ăn sâu vào tâm thức người Việt với sự đủ đầy, no ấm cùng với những câu nói cửa miệng quen thuộc như: “tết nhất”, “ăn tết”, “vui như tết”, “đói ngày giỗ cha, no ba ngày tết”… dù rằng sau đó lại chật vật trong cuộc mưu sinh với nỗi lo canh cánh về cơm, áo, gạo, tiền… Vì ngày xưa đói khổ, quanh năm cơm không đủ ăn phải ăn độn khoai sắn, áo vá cũng không có mặc cho nên trông chờ đến tết để ăn (ăn tết) và tết là nhất (tết nhất).

Những ngày tết, người ta thường rộng lượng hơn, sẵn sàng tha thứ, bỏ qua những lỗi lầm, đố kỵ, hiềm khích ngày thường, luôn hi vọng vào những điều tốt đẹp nhất… Ngày xưa, ngày đầu xuân nhà vua chọn ngày giờ tốt với nghi lễ long trọng bước lên nơi Đàn Tế trời đất (Đàn Nam Giao), đó là nơi đã chọn có phong thủy tốt được coi là nơi tiếp giáp giữa trời với đất, vua thay mặt dân chúng cầu mong cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, quốc thái dân an, đồng thời chọn 1 ngày nào đó nhà vua xuống đồng đi cày (chỉ vài đoạn tượng trưng) gọi đó là lễ Tịch điền.

Phong tục, tập quán, lễ hội gắn liền với cách thức canh tác của nền nông nghiệp sản xuất lúa nước, thường từ tháng 1 đến hết tháng 3 nông nhàn cho nên ăn chơi lễ hội.

Ngày nay làm ăn chạy theo cơ chế thị trường, nên ngày mồng 1 đã có nhiều tiểu thương buôn bán nhỏ mở hàng lo làm ăn. Nhiều cơ quan, doanh nghiệp được nghỉ tết tối đa cũng đến mồng 10 âm phải đi làm, nhưng cũng có một số cơ quan vì tính chất nghề nghiệp như bưu điện, bệnh viện… hoặc đơn vị sản xuất thi công vì tiến độ công việc nên không được nghỉ tết; vậy nên tết Nguyên Đán bây giờ không còn được như xưa nữa, không còn cả 3 tháng ăn chơi, không còn “Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng 2 cờ bạc, tháng 3 hội hè” như xưa mà đang mất dần đi ý nghĩa truyền thống, đang mất dần đi vị trí thiêng liêng trong tâm thức người Việt, nhất là những người trẻ tuổi. Tuy nhiên, chúng ta vẫn hy vọng rằng, với sự cố gắng duy trì và gìn giữ những phong tục của tết cổ truyền xưa trong nhiều gia đình, tết Cả sẽ dần dần trở lại với đúng nghĩa trong tâm thức của mọi người dân Việt. Một cái tết Nguyên Đán nữa lại đang về !

Chúc mọi người sang năm mới: an khang, thịnh vượng, phát triển !

Viết lại ngày 12 tháng 5 năm 2020 – Trần Điện Năng

 

Related Articles

Stay Connected

0Thành viênThích
0Người theo dõiTheo dõi
22,000Người theo dõiĐăng Ký
- Advertisement -spot_img

Latest Articles